Sơn Nam
HỒI KÝ SƠN NAM - tập 1
TỪ U MINH ÐẾN CẦN THƠ
Chương
1
Tôi
chào đời vào năm 1926 ở vùng U Minh Hạ, thuộc
khu vực rừng tràm trầm thủy ven vịnh Xiêm La mà
Pháp khoanh vùng để bảo quản và quản lý khá
chặt chẽ, tuy nhiên người dân địa phưong
có thể đốn cây tươi để bán lẻ
tẻ hoặc dùng trong gia đình. Ðây là khu vực thuộc
huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang,với con rạch Thứ
Sáu, hệ thống rạch mà Gia Ðịnh Thành Thông Chí
đời Gia Long đã mô tả. Hơn chục con rạch
ngắn, cong queo,bắt nguồn từ giữa rừng
chảy ra biển ,từ Ðông sang Tây, chẳng dính dấp gì
đến con sông Hậu Giang. Mùa mưa, nước tràn
vùng trũng, chịu ảnh hưởng hải triều,
24 giờ có hai lần lớn ròng, vì vậy, nước
dưới rạch như mãi lưu thông. Tóm
lại,nước dưới rạch không chảy từ
đất cao xuống hạ lưu đất
thấp.Bờ biển là bãi bùn phù sa, đầy cây mấm,
cây giá không có giá trị kinh tế như cây
đước.Nhà ở bờ rạch, ra biển
khoảng 4 kilômét, ấy thế mà từ thuở lọt
lòng đến hơn 10 mét, đầy cây mấm,cây
giá,muỗi mòng bay ào ào ngày như đêm,bước
xuống thì lún ngang đầu gối.Rừng cũng
vậy,mãn năm sình lầy ,dưới bùn lố nhố
những gốc cây đã chết hoặc cây sậy ,
đế,khá bén nhọn. Ấy thế mà người dân
đi chân đất, gần như chẳng bao giờ
bị thương tích đáng kể. Lớn lên,
được dịp đi tận Hà Tiên rồi Vũng
Tàu hoặc Nha Trang ,tôi vui sướng vô cùng. Rõ ràng là
biển của xứ người trông thơ mộng, sạch
sẽ với bãi cát trắng hoặc vàng nước
biển xanh đậm không như phía vịnh Xiêm La toàn là
phù sa màu vàng sậm, màu nâu. Khác hẳn rừng miền
Ðông nơi có suối,có hốc đá,nơi con nai ngơ ngác
uống ánh trăng vàng. Chung quanh nhà ,nơi tôi chào
đời, đầy lau sậy,luôn luôn có muỗi lại
còn ong rừng (gọi ong mật).Hừng sáng,trẻ con
dễ đói bụng,thường đi tìm đám lau
sậy hoặc cây tạp mà gặp tổ ong mật, ổ
còn nhỏ ni tấc cỡ cái bánh tráng(bánh đa).Vắt
mật ong,uống tại chổ gọi là ăn
điểm tâm,lát sau ra về, lừng khừng như
kẻ say rượu vì mật ong có rượu,gây khó
chịu lúc đói bụng. Lắm khi trẻ con đi
dạo trong đồng cỏ, thu hoạch được
chút ít mật ong, đem lại tiệm quán đổi
lấy vài viên kẹo.Mật ong quá ít, bán chẳng ai mua, muốn
bán thì phải có số lượng vài chục lít, đem ra
tỉnh lỵ. Cũng như cá lóc, cá trê, muốn thu
hoạch khối lượng to cần có thương lái
gíup vốn sắm xuồng , sắm câu, ưới
để sống tạm qua ngày.
Xóm
tôi hồi đó còn vài mươi gia đình người
Khơme, người lớn tuổi bảo rằng họ
tản cư đến khi Pháp đánh chiếm hồi
cuối thế kỷ 19, dân số Khơme dường
như không tăng không giảm vì trẻ con kém săn sóc
dễ bị đào thải từ tấm bé. Gần xóm, vài
ao nước tương đối ngọt với
thềm cao .Thỉnh thoảng,dân bắt rắn ,bắt
lươn dùng chỉa mà xom,phát hiện vài lỗ trống
,bên dưới đầy lươn và xương
người nát bấy,nhưng tóc còn nguyên vẹn. Mộ
của người đến U Minh, sống nghèo túng
rồi mất từ xa xưa.
Ông
nội tôi chào đời ở cù lao Ông Chưởng (An
Giang) khoảng 1840, ông cố tôi cũng ở đấy,từ
xưa. Ông nội tôi chạy giặc Pháp ,qua Rạch Giá,
đến Cù Là rồi xuống U Minh. Bấy giờ Pháp cho
trưng khẩn đất tự do,nhưng ai cũng chán
chê vì đất quá úng, chưa có dân lưu tán đến, họ
chờ mãi vẫn không thấy người Pháp cho đào
kinh thủy lợi. Ðất hoang ấy phải trả
lại cho nhà nước để khỏi đóng
thuế, chỉ giữ chút ít diện tích để đào
đìa (ao nuôi cá)hoặc chờ mùa nắng cá tự
động gom vào trũng .Hồi mới đến
định cư,thử trồng một cây khế ,nay
đã còi cọc,trông khôi hài nhưng có giá trị vì lớn
tuổi hơn tôi. Bác hai của tôi phá rừng ,trồng vài
mươi cây dưà nơi đất úng ,về
sau,trồng một cây mai vàng,gần Tết cũng trỏ
vài bông . Bác tôi giữ búi tóc,thích giao thiệp với xóm
người Khơme nói trên, ông rành tiếng Khome, lại có
khả năng kể chuyện cổ tích Khơme cho
trẻ con nghe ,và thích lên đồng bóng (gọi xây
Á-rặc)mời thần thánh địa phương
người Khơme nhập vào.
Lúc
ấy , ông uống rượu,xem bói tướng cho
người địa phương. Ông kể chuyện
xưa ngày khẩn hoang, không cường điệu, tôi còn
giữ được vài ấn tượng sâu sắc, nhờ
vậy mà sau nầy tôi viết quyển Lịch sử khẩn hoang miền Nam với thái
độ tự tin. Hồi chế độ cũ, tôi
cố gắng viết những truyện ngắn, sau
nầy gom lại lấy nhan đề Hương Rừng Cà Mau.Người khen kẻ
chê nhưng nên nhớ rằng chế độ kiểm
duyệt lúc ấy tinh tế lắm.Tôi gởi một
quyển về cho bác Hai tôi, ông không biết chữ Hán
chữ Quốc ngữ gì cả, nhờ đứa cháu
ngoại đọc lại, năm ấy bác đã
khoảng 90 tuổi. Ðứa cháu ấy viết lá thơ
ngắn gởi lên Sài Gòn, tóm tắt ý kiến của bác mà
tôi vô cùng trân trọng: “Thằng nầy nói dóc, nghe
được quá.Nói dóc mà có căn cứ”. Phải
rồi, truyện ngắn, truyện kể gì gì đều
là loại hư cấu.Nhưng hư cấu phải có
căn. Có căn tức là mang cốt lõi hiện thực. Lời
nhận xét của bác Hai khiến tôi hãnh diện với thâm
tâm.
Lớn
lên, đâu khoảng tôi 6 tuổi, cha tôi là con út trong gia
đình bèn rời bỏ quê hương đi khẩn
đất, lên phía Bắc, ven vịnh Thái Lan, cách
thị xã Rạch Giá chừng 15 kilômét phía Hà Tiên (nay gọi
là vùng ven khu Tứ Giác). Bấy giờ con kinh Rạch Giá-Hà
Tiên vừa đào xong nhưng chưa được sử
dụng vì bên bờ thưa thớt dân cư, nước
phèn mặn.Dọc theo mé biển nhiều giồng cát cao ráo
đã có người khơme định cư, co cụm
trên cao, ven giồng là đất thấp, úng lụt. Thêm vài
ngọn đồi thơ mộng,dính vào đất
liền, gọi là vùng Hòn Chông, Ba Hòn với hai cột đá
cao, nằm nghiêng một chiều, gọi hòn Phụ Tử
rồi lên Hà Tiên gặp nhiều hòn đá vôi (xi măng Hà
Tiên). Ăn đến biên giới là những thắng
cảnh như Tô Châu, Đông Hồ, Thạch Ðộng, gần
xa ngoài biển là hàng chục đảo lớn nhỏ, khi
trời quang mây tạnh, nhìn thấy dạng đảo Phú
Quốc khá cao và dài.
Không
khí u buồn nhưng chưa quá ảm đạm.Còn đâu
thời Mạc Thiên Tứ với Chiêu Anh Các!
Phía đông của toàn dải đất bao la,trông nhàm chán
nầy là dãy Thất Sơn dọc theo Biên giới,phía Tây
Bắc rồi xuống phía Nam là sông Hậu khá rộng
(nhánh của sông Tiền,tức sông Cửu Long).Giống
hệt như phía Ðồng Tháp Mười với cỏ
bàng, và hàng trăm thứ cỏ cao,cỏ thấp chẳng
có giá trị kinh tế.Có thể nói nơi tiếp giáp
với nước Cam Bốt là Ðồng Tháp Mười và
khu vực Tứ Giác nói trên, riêng khu Tứ Giác đã
được Thoại Ngọc Hầu từ cuối
đời Gia Long khoanh vùng với kinh Vĩnh Tế và kinh
Thoại Hà (Long Xuyên).Giữa biển cỏ hoang vắng
nầy,nhô lên núi Ba Thê với di chỉ quan trọng của
nước Phù Nam xa xưa hồi đầu Tây lịch. Khu
Tứ Giác, kể luôn Ðồng Tháp Mười là đất
khắc nghiệt , đã nhận chìm nước Phù Nam nay
ít ai biết.Và các nhà khảo cứu còn đang mò mẫm tìm
hiểu:Dân Phù Nam từ đâu đến và họ đã
đi về đâu?Cánh đồng cỏ bao la nầy
được người Việt trổ tài khai phá, tuy
phải đối đầu với môi trường xa
lạ,nhầt là về thủy văn.Khác hẳn cánh
đồng của sông Hương, sông Thu Bồn hoặc
có qui mô như sông Ðồng Nai. Những cơn lụt
thường niên xuất phát từ Tây Tạng ,Lào,Cam
Bốt nhưng Thoại Ngọc Hầu đã phân vùng khá
chính xác với hai con kinh phía Bắc và phía Nam,nhờ vậy
mà tên tuổi của ông được hậu thế mãi
ghi nhớ.
Nếu
vùng U Minh phía Nam ven biển vịnh Xiêm La, nơi tôi chào
đời (xã Ðông Thái, ấp Giữa ) còn khó tìm trên bản
đồ thì xóm Sóc Xoài, nơi cha tôi đến khẩn
hoang đợt sau khó tìm hơn,thuộc xã Sóc Sơn,ngay
rạch Tà Lúa. Ðất phèn và mặn, phải đào
ao,uống tạm, nấu cơm. Ít ai bệnh hoạn vì
loại nước ao nầy,vài người cho rằng
bấy giờ ta chưa dùng thuốc trừ sâu. Núi thấp
ngoài biển rải rác nhiều đảo nhỏ, gần
bờ là những bầy quạ đen hoặc bầy ó. Hình
dáng con ó được tả lại qua câu thai đố:
“mình dà (đà) mặc áo cũng
dà.Tay xách con gà, đầu đội thúng bông.”
Ó
đáp xuống,xớt gà con rồi bay lên cao , đầu ó
mang chòm lông trắng ...
Chân
trời rộng,bên kia vịnh là các nước Thái, Mã Lai
nhưng ít giao lưu vì thiều hàng hóa và khả năng mua
sắm.Về đâu?Về đâu?Chỉ biết nhìn lên
trời,tìm hướng siêu thoát,nương vào mây bay.
Vào mùa mưa, gió Tây Nam của gió mùa đen kịt, từng
nhà như sống cô lập,thôi thì ăn tạm chén
cơm,chút nước mắm rồi ngủ,dầu đèn
không có để mà thấp,chẳng còn chuyện gì
để cho người trong nhà bàn bạc với
nhau.Cọp beo từ lâu rồi không ai thấy, cường
hào ác bá chẳng muốn lấn hiếp kẻ tay trơn, ma
quỉ có lẽ đã mất dạng , đến như
bầy muỗi lừng danh kêu “như sáo thổi” cũng
lẩn trốn khó khăn trong tấm vách lá đang run
phần phật. “Thương thay, thập loại chúng
sinh!”
Lớn lên, càng già tôi càng
hiểu rằng những ấn tượng đầu tiên
khi mình còn bé vừa tiếp xúc với cuộc đời
cứ theo thời gian mà khắc càng sâu trong tâm thức, không
tài nào diễn tả được,khi ẩn khi hiện. Cũng
như khi vào trường làng ở vùng nầy, tôi học
chung với vài cậu bé Việt lai Hoa, Hoa lai
Khơme.Học trò không mấy đứa có khai sinh, tên nghe
ngộ nghĩnh như thằng Tứng , thằng Khưng thằng
Xa Ðơn. Lắm đứa ở trần mặc quần
cụt vào lớp , thỉnh thoảng lén ra ngoài sân rồi
trở về nhà.Thầy giáo đành chịu vậy, gắt
gỏng quá thì lớp học khó tìm được
mươi học trò,chưa nói đến mùa mưa, làm
ruộng,vài đứa giúp cha mẹ trong việc
đồng áng, hoặc lên cơn sốt rét.Thầy giáo do
làng hoặc tổng tuyển chọn, ăn lương
khoán. Ngành giáo dục tỉnh thỉnh thoảng gởi
đến vài xấp tư liệu, kiểu giáo án, khá
tươm tất như là nội san định kỳ, gọi
Sư Phạm Học Khóa. Vì vậy, tuy có ít nhiều sách
Quốc Văn Giáo Khoa Thư từ Hà Nội gởi vào, nhưng
trường ở xa xôi vẫn dạy theo tư liệu
riêng, không sát theo chương trình nhưng gợi cảm
hơn.Thí dụ như bài học thuộc lòng :
Ðêm
khuya, nhà vắng , tớ đang sầu,
Lũ ếch sao bây dám
bảo nhau
Kêu khắp bốn
phương nhà tớ ở?
Này im, nghe tớ hỏi
vài câu.
Bây giận chi mà kêu
ếch ộp
Hay bây có cái thú riêng gì?
Thú gì, rủ tớ đi theo
với,
Rủ tớ đi đâu
tớ cũng đi!
Học
trò đọc lên, lúc được thầy giáo gọi
“trả bài” lấy làm thích thú,dễ nhớ,như quen
thuộc với môi trường đồng không mông
quạnh. Lũ trẻ chắc cũng hiểu đại
khái nội dung nên cười tủm tỉm;thầy giáo
vừa rời quê xứ, đến khu Tứ Giác này
để dạy học với đồng lương vô
nghĩa cũng có đôi phút chạnh lòng nhớ ruộng, vườn,bờ
cỏ hoang vắng, từ thuở ông bà . Kỷ niệm
thời thơ ấu bất diệt, mặc dầu đã
lớn tuổi.
Học
vỡ lòng một đôi năm,cha đua tôi từ xóm Cù Là, xem
như cổ kính, gần thị xã Rạch Giá,trên giồng
đất cao ráo cũng nhiều người Khơme
ở lâu đời,nhưng ruộng tốt,lại có ngã ba
sông rạch. Mấy bô lão cho rằng Cù Là là cái xứ bán
thứ cao xoa bóp trị bá chứng , do người Cù Là
đưa tới,hiểu là người Miến Ðiện
(nay Myanmar).Vịnh Xiêm la quả là nơi hội tụ
nhỏ bé của vài nước Ðông Nam châu Á. Gần Cù Là nay
còn tên đất Xà Xiêm (Sre Xiêm), nơi người Xiêm
đến làm ruộng (thời Nguyễn Ánh-Tây Sơn
chăng?).Nhưng sôi động nhất là sự hiện
diện của người Hoa, phần lớn là Triều
Châu,họ mua bán sỉ lẻ, đặc biệt là tổ
chức sòng bạc ngày đêm, gần như là công khai.Thanh
niên phần đông là lai tạp,chiều chiều
đến học võ và trình diễn nào võ Khơme,võ Việt
Nam (?),võ Triều Châu,võ Lào,võ Xiêm (nhất là dịp lễ
hội ở chùa Phật người Khơme).
Ðược
ở trọ nhà người bác ruột, ông có trưng
khẩn vài mươi mẫu đất khá tốt,nhà
lợp ngói,vách ván,nền lót gạch tàu,rõ là tiêu biểu cho
văn minhViệt ở vùng đất tụ hội, giao
lưu nầy.Trước sân,nhờ rạch Cù Là
được nguồn nước ngọt đưa vào
nên trồng khá nhiều cây cảnh như nguyệt quới
(quí), ngâu, lài, đặc biệt là hai cội mai vàng.Tết
về vàng rực hoa to;hoa cỏn búp,lại còn bàn thờ
ông bà,lư hương,nhà hơi thấp,bảo rằng
trong nhà phải tối nhá nhem, ông bà phải chịu về
với con cháu.Bàn thờ luôn thắp ngọn đèn
trứng vịt, đó là lửa thiêng,lửa hương
hỏa.Cn cháu ưa thức đêm phải ngủ nhà
dưới ,phía trước nơi nấu bếp.
Học
hành ngày hai buổi, ngày chủ nhật mới rảnh rang
,dạo chơi sau hè.Cách nhà chừng 100 mét, đã
đắp vùng đất khá rộng và cao,gọi thổ
mộ,hiểu là nơi chôn cất của riêng dòng
họ.Phần mộ ông nội tôi ở đó,mặt
bằng,thọ hơn 80 tuổi,mất năm “ Bảo
Ðại tam niên”1929.Tuy ở xứ Nam Kỳ thuộc
địa , niên hiệu Bảo Ðại của Trung Kỳ vẫn
được mến mộ,nhắc nhở văn hóa
Việt Nam. Ở thổ mộ,còn giữ được
một cây rừng , mọc sẵn,cây chòi mòi,thân không to,cho
từng chùm trái nhỏ như hạt tiêu, ăn chua.
Năm
ấy,cả xóm náo động lên:Cây “muồng giè” có
trái.Tới mà coi!Muồng giè là loại cây rừng,xóm Cù Là
còn sót một cây cao cỡ cây dừa lão,thân to và thẳng,lá
như lá cây cọ,mọc trơ giữa đất
ruộng,sau chùa.Lại bảo rằng cây nầy trăm
năm mới có trái một lần, điềm may mắn
của cả khu vực.Hằng trăm người bao vây
gốc cây,từng chùm trái được thòng xuống.Dân
trong xóm mang rổ,thúng đến chia phần xem nó là tài
sản công cộng.Trái nó to như trái nhãn, đem về
luộc ăn,bên trong có chất bột màu tím
dợt,thơm tho.Vài người bảo nếu đem trái
ấy mà chà ra bột,làm bánh ăn,ngon như bột hoành
tinh.Tôi được ăn thử, để hưởng
“lộc nước , ơn trời”.Quả thật là
ngon.Từ đấy đến nay, ngao du tận Sài Gòn, miền
Ðông Nam Bộ, tôi chỉ nghe văng vẳng tên giống cây
nầy,chưa được ăn lần thứ nhì .
Nhờ
đi học ở trường làng chính qui, ôi
được tiếp xúc với sách giáo khoa do Trần
Trọng Kim, NguyễnVăn Ngọc soạn, quen với
văn hoá sông Hồng , thí dụ như những câu ca dao
“Trong đầm gì đẹp bằng sen”, “Con cò mà đi
ăn đêm”, thêm chuyện phương Ðông như “Ðạo
bằng hữu phải có thủy chung”, “Lý Mật nuôi bà”
hoặc chuyện cổ Tây phương như “Cái
lưỡỉ” của Ê-sốp.Vài đoạn ngắn khá
thơ mộng, đầy tính nhân bản, đọc qua là
thuộc lòng ngay như “Ai bảo chăn trâu là khổ”.
Lần đầu tiên học chung với học trò chính
qui, có khai sinh, tên cha mẹ.Trong lớp treo bảng Danh
dự ghi tên mấy học sinh đứng đầu
về điểm trong tháng, lại còn bảng ghi danh sách
học sinh thay phiên nhau quét lớp.
Năm
học ở Cù Là, tôi được sắp vào hạng
giỏi. Học sinh phần lớn siêng năng,rất
sợ thầy giáo,quê thầy ở tận Cao Lãnh. Hôm
nọ điểm danh thấy vắng một đứa, tên
là Mì. Học sinh vắng mặt,có hoặc không xin phép
trước là bình thường nhưng chưa chi học
sinh nhốn nháo lên.Thằng Mì đến cổng
trường, đứng lại chờ mẹ nó nắm
tay dắt vào lớp.Mẹ và con bịt khăn tang,
đứng do dự trong khi thầy giáo bước
tới. Mẹ nó khóc.Thầy giáo nói lẩm bẩm, rồi
mẹ nó bước ra về.Thầy bảo rằng hôm nay
thằng Mì nghỉ học vì cha nó bị giết tại
nhà.Học trò im lặng rồi bàn tán xì xào,thầy giáo
như bần thần, không giảng bài tiếng nào cả. Lát
sau ,trống đánh tan buổi học.Nhà thằng Mì cách nhà
trường khoảng 3 cây số ngàn,nếu đi tắt
qua ruộng.Tuy là chuyện của người lớn,
học trò như buồn lây,lủi thủi ta về, không
ồn ào trước sân như thường lệ.Và ngày
hôm sau, lúc đầu giờ mẹ thằng Mì lại
dắt nó đến,cũng mặc tang phục, gặp
thầy giáo rồi day về phía học sinh, ngỏ lời
cảm ơn nhà trường,thầy giáo,các bạn bè
học sinh rồi tạm biệt với lý do là sau đám
tang, hai mẹ con phải đi về quê,không xa, ở kinh
Nước Mặn,bà con dòng họ sẽ giúp đỡ.
Cha
thằng Mì chết trong trường hợp nào? Mươi
năm sau, thời kháng Pháp, tình cờ tôi theo chân anh em Vệ Quốc Ðoàn
đến đóng tại khu vực trường học
xưa;Vài người lớn tuổi cho biết mẹ
thằng Mì có đời chồng trước, ly thân
rồi gặp người chồng sau,sanh ra nó. Người
chồng trước trở về đánh ghen,và cha
ruột thằng Mì bị chém lúc cãi vã. Người
chồng trước bị bắt tại trận,
đưa lên tòa đại hình Cần Thơ xử đâu
năm năm khổ sai, đày biệt xứ.Thằng Mì
tham gia dân quân du kích địa phương,can đảm
lắm, đã hy sinh, đồng bạn đã làm lễ truy
điệu long trọng.Còn mẹ nó thì nghe đâu đã
xuất gia, đi tu đâu phía Cần Thơ. Ông lão kể
chuyện rồi chỉ ra phía đồng trống:Mộ
nó ngoài kia,xa đường,sình lầy,muốn thăm có
người dẫn đường cho.
Bốn
gốc mộ,có chôn bốn cái ve chai để đánh
dấu sợ thất lạc nhưng chưa thấy ai
đến tìm cả.
Tôi ngao ngán,nhớ đến gương mặt nó lúc vào
lớp tạm biệt anh em, khi rời quê xứ,năm
ấy.Và nhớ đến mẹ nó, tuy tuổi ấy cô
đơn,chịu đựng búa rìu dư luận nhưng
giữ tư cách đối với thầy giáo,với
bạn học của con mình. Ðiều mà gần như ít
thấy.Ngày nay, tuy lượng thông tin dồi dào
hơn,nhưng cuộc sống càng làm cho con người
thêm cô
đơn. Bởi vậy, để bớt
cô đơn, bức xúc vô lý,con người cần có
những gì sốt dẻo gây ấn tượng, nhưng
ấn tượng nhiều khi quá nhàm, chỉ làm khuây
khỏa tạm thời mà thôi.Thời xưa cái bịnh
bức xúc (stress) không ai nghe nói và quả thật thời
xưa là cô đơn kiểu khác,vì cô độc cá nhân, nhưng
ngày nay lại xảy ra kiểu cô đơn giữa đám
đông, khi chen chúc dạo phố,hoặc có khi nhiều
tiền nhưng thấy tiền chẳng giải quyết
dứt khoát được chuyện gì cả.Thiếu
ấn tượng sâu đậm.
Ðến
xứ Cù Là,tôi đã rời vùng U Minh.Xứ lạ, nước
dưới rạch chảy thao thao,gần biển,lục
bình trôi từng giề,riu ríu,vào mùa thu thì đơm bông màu
tím dợt,khá xinh đẹp nhưng loại bông nầy quá
mềm yếu, cắt đem chưng vào bình chừng
mươi phút đã héo ủ rũ, đem luộc ăn
thì chẳng thoảng mùi vị gì cả. Ở xa, xem đẹp,
thân thương vì nó như quanh quẩn bên cuộc sống
của ta. nhưng người lớn tuổi luôn căn
dặn trẻ con đừng bơi lội lại gần:
giữa rạch, nước sâu,chảy mạnh, làm
đuối trẻ con.Những giề lục bình to
thường làm ổ cho loại rắn nước,khá
độc hại,tùy con.Nói để răn đe nhưng
tôi chưa thấy người nào bị rắn cắn
từ giề lục bình trôi cả.
Xóm Cù Là vào buổi
ấy (1935-1936) được tạm gọi là đô
thị hóa nhờ cao ráo, lại gần thị xã Rạch
Giá, cách khoảng 12 kilômét với con lộ xe hơi nhỏ.Vì dễ giao lưu với
tỉnh lỵ, thêm mầu mỡ,thích hợp với lúa
đặc sản,ngon cơm (đất có chân nước
mặn thích hợp với lúa ngon cơm). Hơn nữa, từ
thời Gia Long, đã có dân cư trú khá đông. Giới
điền chủ người Việt đến trưng
khẩn,một hécta giá gấp năm hoặc 10 lần
đất úng của vùng U Minh.Vì ở gần thị
xã,như một ốc đảo riêng biệt nên giới
điền chủ ưa tụ họp để cờ
bạc, đá gà qua những sòng lớn, sòng nhỏ,lây lan
đến xóm lân cận,hấp dẫn luôn cả
người nghèo túng.Chủ chứa đã ăn chịu
với quan làng nên vùng Cù Là là thế giới riêng ,nuôi
sống giới chủ quán; ăn uống sang
trọng,với đăc sản Tàu,Việt.Thêm tiệm
hút thuốc phiện,trên gác xép, giới tiên ông đi mây
về gió; tầng trệt là nơi hớt tóc có bán thêm các
loại thuốc trị bệnh phong tình, bệnh đàn bà,
đại khái thời xưa khó trị, mãi sau nầy dùng
thuốc trụ sinh đem lại hiệu quả nhanh chóng
hơn.Thợ hớt tóc nói chung là khi lớn tuổi
(khoảng 50) mới được tin cậy , một
tỷ lệ không nhỏ của giới thợ là nghiện
thuốc phiện nặng,nhẹ,họ biết đàn kìm
(đàn nguyệt).Người thợ phụ hoặc
người hàng xóm nào thích đàn ca thì kết thân,hết
đàn thì đánh cờ tướng.Bản Vọng cổ
đang triển khai, sau khi thành hình từ non 20 năm
trước,có thừa tính thuyết phục.Người ca
Vọng cổ thường bắt chước hơi
hướm, cách xếp chữ theo dĩa hát (bây giờ giá
khá cao,còn phổ biến hạn chế). Ði đâu cũng
nghe văng vẳng: “Ác ngậm
non đoài,, ngọn gió Ðông Nam (nó) thổi đưa mặt
nhựt hồi về nơi Tây Bắc.Nhựt dĩ hoàng
hôn, tai tôi nghe tiếng con chim oanh (nó) ríu rít dường
như rủ bạn về non.Ngửa mặt nhìn,ngơ
ngẩn tấm lòng son.” Lời ca lãng mạn bâng
quơ,hợp với tâm trạng người nghe,một
sự giải đáp không khó khăn cho lắm.Trên sông
nước, tiếng hò tiếng hát của giới
thương hồ còn văng vẳng ,bấy giờ ghe
gắn động cơ gần như không có,họa
chăng trên tuyến đường thủy nào đó, nơi
các chợ làng, chợ quận giao lưu. Văn minh gọi
là thính-thị chưa gây được uy thế...vài phóng
viên hoặc đặc phái viên của vài tuần báo ở
Sài Gòn đăng tải cũng như phát xít Ðức chuẩn
bị thế chiến thứ 2,họa chăng ở xóm Cù
Là nầy một đôi thầy giáo lớn tuổi lưu ý
suy gẫm.
Vài người khách vãng lai dạy lời bản Tây Thi
về sự gan lì của Phan
Bội Châu, Phan Chu Trinh,bọn thanh niên ghi chép, phổ
biến. Lòng yêu nước của người phía Tây Nam
bấy giờ vẫn bồng bột.
Ở
Tà Niên, làng Vĩnh Hòa Hiệp, sát bên chợ Cù Là,dân làng
thờ ông Nguyễn Trung
Trực,vị anh hùng kháng Pháp, khởi
nghĩa rồi bị giặt bắt,chém đầu năm
1868.Bảo rằng đình ấy thiên lắm,thờ
Nguyễn Trung Trực
nhưng đình có trước cuộc khởi nghĩa
cũng như sắc phong đã ban từ trước cho
một vị Thành hoàng Bổn cảnh.Xem Nguyễn Trung Trực như
vị thần là do lòng dân,những người thân Pháp
chẳng ai dám cãi lại,truy từ chữ nghĩa ghi trong
sắc thần! Lòng dân đã phong là chân lý tuyệt
đối, đủ tính thuyết phục về tâm linh.
Những
chiếc xuồng bé nhỏ vào buổi ấy (nay không
còn),hừng đông là xuất hiện gần như đúng
giờ đúng khắc,bán món ăn sáng với giá cực
kỳ rẻ. Bắp giã, hiểu là bắp khô, xay cho nát
sơ sài rồi đem hầm, trắng nõn, ăn với
dừa khô nạo, thêm tí muối mè. Hoặc bắp nấu,
hiểu là trái bắp tươi xanh, đem luộc chín ngon
ngọt, lột vài lớp bẹ ra, tha hộ lựa
chọn, nào trái quá già,quá non.Lại còn xôi nước
dừa, xôi nghệ. Muốn ăn thì xuống gọi là
xuồng ghé lại.Người bán ở chợ nhà quê luôn
tươi cười, sạch sẽ, áo trắng, quần
đen, đầu đội khăn bàn trắng (kiểu
khăn lông lau mặt ngày nay,nhập từ bên Pháp).Thức
ăn được phủ với miếng vải
trắng mỏng, che bụi,che mưa, đựng trong thau
sắt tráng kẽm,nhập từ Singapo. Người bán
không tranh dành, ai đi giờ khắc nấy, với
tiếng rao dễ phân biệt, gọn gàng không kéo dài như
tiếng rao chè ở đường phố Sài Gòn.Thời
thịnh của văn minh sông nước.Những cô
Khừng,cô Láng, cô Xứng, nghe tên là biết người
Việt lai Hoa từ một hai đời.Còn đâu các cô
ấy, nay đã hơn trăm tuổi, nhà nghèo mà lạc
quan đã giúp gia đình,giúp đời!
Là
đất xưa, xóm Cù Là qui tụ một số
người dân tộc Khơme khá thuần thục, với
đôi ba sào đất tốt,có thể sống
được,thêm cá ngoài ruộng,dưới rạch.Khi
cực thì ăn cơm trắng, gạo ngon,với trái me
xanh, đâm muối tạm gọi là thức ăn. Ông sãi
hàng ngày đi khất thực,vui vẻ. Ngày lễ hội, cũng
tưng bừng múa hát. Họ thích uống rượu
đế,trưa mùa nắng, đôi ba người ra
bụi tre sau hè,uống lai rai,thấy giải khát ngay,
đôi khi,họ ra quán uống tách cà-phê,thế là đủ.Thỉnh
thoảng,bán vài con vịt hoặc con heo,ra tận ngoài
thị xã,mua cho được cây đèn “pin”, ban đêm
đem rọi lên ngọn tre, dùng cây sào dài mà đập vài
con cò đang say ngủ. Gần như họ không dời
chỗ ở.
Những
ngày sau giải phóng 1975, tôi được cơ hội
về xóm cũ, viếng phần mộ cha.Hơn ba
mươi năm qua,chưa bao giờ gặp mặt,
ấy thế mà khi tôi về với mái tóc hoa râm,họ
nhận ra ngay,phần tôi thì chỉ nhớ mang máng. Ðó là
những cô gái già nua,xưa tên là Cà Na,Cà Nữ ở xóm. Họ
kêu tên tôi và đưa tôi đến phần mộ cha. Mộ
trông như hoang vu, cỏ mọc phủ đầy. Họ
kể lại vài chi tiết của đám tang đơn
giản năm nào.Họ bảo rằng: Phần mộ còn
ở đây thì mãi mãi ở đây,họ hứa chăm sóc
giùm, đại khái,vì theo người Khơme thì
người chết cần được hỏa thiêu
đưa vào chùa, còn phần mộ cha tôi thì họ khuyên
để cỏ mọc đầy cho nó lần hồi
mất dạng!
Buổi
ấy hằng năm trường ở tỉnh lỵ
đã bày ra cuộc thi tuyển lên lớp trên, sau lớp
sơ đẳng, nhờ đậu cao, tôi được
trợ cấp học bổng, hằng tháng đâu chừng
4 đồng bạc. Một số tiền khá to. Rời
xóm Cù Là, tôi ra chợ Rạch Giá,một thị xã sát bờ
biển, khá xưa, đã sung túc từ thời Mạc Thiên
Tứ (con Mạc Cửu).Tôi ở trọ nhà ông Sáu Thuyền,
rạch Vàm Trư. Ðại Nam Nhất Thống Chí đã ghi
tên con rạch nầy, hiểu Trư là con heo.Thời
trước đất đai hoang vu, lau sậy non là
thức ăn lý tưởng của heo
rừng,người dân địa phương còn kể
lại chuyện xưa rằng heo rừng sống lâu
năm có thể chống lại cọp dữ. Rạch
nhỏ chảy cong queo ra biển, bờ rạch tràn lan lá
dừa nước. Sau nầy đọc sử thấy
Mạc Thiên Tứ đã mở mang vùng Rạch Giá, ta nên
hiểu đó là qui tụ dân cư ở vài điểm
để mua bán,làm trạm trung chuyển hải sản
đưa lên Trung Hoa
hoặc xuống phía Xiêm, Mã Lai.Tôi ở trọ nhà ông Sáu Thuyền,
ăn cơm chung, ông ít nói,thỉnh thoảng thốt vài câu
bâng quơ. Nhìn ra khoảng đất trống vắng sau
hè nhà, quanh năm chỉ thấy mưa nắng,vài
người nhổ mạ,cấy lúa,cày ruộng khi vào mùa
mưa. Nói cho tôi nghe, nhưng là ông nói với trời, với
đất , cây cỏ;tôi chỉ là thằng bé khép nép, năm
ấy mới 11 tuổi, tự thấy mình không đủ
tư thế để hỏi han,chất vấn hoặc
trả lời. Ấy thế mà lớn lên,khi ông mất,tôi
vẫn nhớ vài mảng nhỏ.Nguyễn Trung Trực năm
ấy tuổi non 30 đã đưa quân du kích từ U
Minh,từ xóm Cù Là mà tôi vừa rời chân lên ngồi quanh
đồn Pháp,trong cỏ cây um tùm,nhờ có sóng biển ào
ạt nên giặc không hay biết.Hừng đông, nghĩa
quân xông vào đồn, đốt phá,giết trọn
bọn giặc,ngoại trừ đôi tên đã lén ra ngoài
chơi;nghe tiếng hò hét, thấy đồn đã cháy, chúng
không dám trở về. Cha ruột ông Sáu Thuyền
đã tham gia nghĩa quân,khi về nhà đã kể lại
rằng khi vào đồn,lục soát thấy những
cục gì mềm ở nhà bếp,
ngỡ là thứ thực phẩm lạ của Pháp,bèn
chụp lấy, về nhà ăn thử thấy cay cay, mặn
mặn nên ngỡ là món mà Pháp dùng để ăn với
cháo trắng cho dễ nuốt.Vài người ăn
thử, mang bệnh thổ tả, sau nầy chợt
hiểu đó là xà phòng!
Về
già, ông sáu cứ lẩm cẩm về chuyện cục xà
phòng ấy, không cần ai nghe, không cần ai tin là chuyện
có thật. Một hôm, khoảng xế chiều, tôi ngồi
học bài, cứ suy nghĩ bâng quơ về mấy
điệu kèn lanh lảnh lặp đi lặp lại “tò
te tí te”mà lúc trước khi mới đến ở trọ
tôi không chú ý cho lắm.Lại phải hỏi khéo léo, ông
gật gù,buồn thiu:
-Mai
hay chiều, tao nói rõ cho mầy nghe!
Vài
hôm sau, khi tiếng kèn của lính mã tà thổi, ông
đến ngồi bên tôi, rất thân mật, hút
điếu thuốc vấn khá to:
-Linh
hồn của binh sĩ ông Nguyễn(Nguyễn Trung Trực)linh thiêng
lắm,lúc đánh chiếm lại đồn Rạch Giá, lính
của mình chết khá nhiều. Kẻ chết không ai chôn
cất vì thời xưa đất gần đồn là
rừng rậm,dân cư gần như không có. Oan hồn
cứ hiện. Nhà ông Chánh (Chánh chủ tỉnh) nghe kêu rú,khi
thì lúc nữa đêm, khi hừng sáng, cây to bỗng trốc
lên ngã xuống ầm ầm. Bởi vậy,Tây cho bọn
lính tới thổi kèn “tò te” để đuổi ma
quỉ,buổi chiều.
Và ông Sáu Thuyền
cho biết gần khu vực thổi kèn,Tây có xây cái khám kiên
cố để nhốt những người dân “An
Nam”cứng đầu, ương ngạnh.Kế bên khám có
cái tháp to và cao lắm,nơi chôn mấy người lính Tây
bị mình giết hồi 70 năm trước.Tháp ghi tên
họ tụi Tây,còn người An Nam mình chết,coi như
là mất thây, không bà con họ hàng gì ở đây, phần
lớn từ Tân An, Hà Tiên, Hòn Chông, Phú Quốc tới,theo
ông Nguyễn.
“Tò
tí te...”Tiếng kèn đồng của nhà binh Pháp cứ ám
ảnh tôi , gần như suốt đời. Vài năm sau,
lên Trung học, được học Việt văn
về bài thơ Vịnh chùa Cây Mai của Tôn Thọ Tường.Pháp đóng
đồn ở gò Cây Mai (Chợ Lớn), mãi sau nầy tôi
mới đến tận nơi tham quan một cách khó
khăn.Gò nầy là nơi tiền trạm mà Pháp trú quân
để đánh lên Chí Hòa,năm 1861. Sử chép từ
trước đời Gia Long,trên gò đất cao ráo
nầy có ngôi chùa Việt Cất trên nền cũ của
chùa Khơme,sẵn có vài cội bạch mai,cao và to; giống
như loại mai mù u,bông nhỏ, thơm mùi trầm
hương(không phải là loại mai chiếu thủy nay
quá phổ biến để trồng làm cây cảnh).Từ
trên đồi cây mai nhìn xuống,thấy về phía Bắc
là vùng Hóc Môn với ruộng và vườn tược.Phía
rạch Bến nghé là phố xá với ghe thuyền đi
hoặc về đồng bằng sông Cửu Long.Sát chân gò
có vùng hoang dại, ẩm thấp đầy sen. Tao nhân
mặc khách đến nương bóng cội mai già mà ngâm
thơ vịnh phú,thú vui ấy mặc nhiên không còn,khi Pháp xâm
chiếm, đóng đồn, lấn qua các tỉnh phía
đồng bằng.
Giặc
đóng đồn nhỏ ở chân đồi. “Tò le kèn
lạ mặt trời chiều”sau câu “Lặng lẽ chuông
quen con bóng xế”.Vùng Cây Mai có chiều chùa xưa,nay hãy
còn.Hồi học lớp Năm,lớp Tư,
được học thuộc lòng bài Vịnh Chùa Cây Mai
của Tôn Thọ Tường,lòng tôi thấy
ngậm ngùi, với chuyện Nguyễn Trung Trực ở
Rạch Giá.Nỗi buồn bao la, không rõ nét cụ
thể.Phải chăng đó là lòng yêu quê hương? Ông Sáu Thuyền
thỉnh thoảng khẳng định với tôi rằng
trong cái kèn đồng của lính Tây đem tới thổi
có gắn cục “vàng găm”, loại kim khí nầy có tác
dụng đuổi ma quỉ.Nhưng kèn đồng
của Tây cứ thổi,nước vẫn mất kẻ
thù của Nguyễn Trung
Trực phải chờ đến Cách
mạng tháng tám 1945 mới bị xua đuổi!Lên bực
Trung học, ở chợ Cần Thơ phồn thịnh,
được cơ hội đọc nhiều tư
liệu về chữ Việt tiệm sách khá nhiều,tôi
hiểu Tôn Thọ Tường là dạng sĩ
phu sớm theo Pháp, gọi là “ quân bán nước”, “Việt
gian”. Ðối nghịch với ông là Cử
Trị đầy đủ tiết tháo, về già
dưỡng nhàn ở Phong Ðiền(Cần Thơ); đành
vậy,nhưng ấn tượng đầu tiên của
tôi về câu thơ “Tò te kèn lạ mặt trời
chiều”ngày càng sâu đậm.
Tôn Thọ Tường đã diễn đạt
tâm trạng mình một cách thật thà, vì thật thà mà
lương tri bộc lộ rõ nét?Theo giặc Pháp nhưng
biết hối tiếc,biết mình là nhu nhược khi
hưởng bổng lộc của Pháp,khi làm phủ
rồi lên đến chức đốc phủ sứ. Về
sau nầy, vài nhà nghiên cứu cho rằng “Tò le kèn lạ
mặt trời chiều”là câu thơ hay, nhưng họ Tôn
sáng tác trong lúc còn chút lương tri, chưa hư hỏng!
Giải thích thế
cũng đúng. Về phê bình văn học, với thời
gian,ta thấy khi xảy ra nhiều biến cố dồn
dập,về chính trị chẳng lẽ ở mỗi bài
phê bình nên ghi ngày tháng?Về lâu về dài,ta thấy nên tránh
thái độ quá khích.Tôn Thọ Tường vì thoếu
bản lĩnh nên hội nhập quá sớm.Phải chờ
vài thế hệ kế tiếp.Như ở Rạch Giá,có
ông Trần Chánh Chiếu,theo Tây học rất sớm làm
quen với thực dân,xin khẩn đất ruộng, trở
thành điền chủ lớn, nhập quốc tịch
Pháp, xin theo đạo Thiên Chúa,qua Nhật gặp Hoàng thân
Cường Ðể với cao vọng sẽ Duy Tân
nước nhà với công nghiệp. Một nhà yêu
nước.
Rạch Giá là cảng
biển. Hàng ngày, cắp sách đi học, tôi ở bên
nầy con rạch nên phải qua cây cầu quay để
đến trường,phía bên kia bờ.Mỗi tháng
một đôi lần, đến trường trễ
giờ vì cầu đang quay, đưa thớt giữa lên
cao,dành khoảng trống cho tàu Hải Nam qua.Cảng
biển Rạch Giá mở ra vịnh Xiêm La đã có từ
thời Mạc Thiên Tứ,sau đó giao cho chính quyền
Việt Nam cai quản. Ðây là loại tàu buồn viễn
dương từ đảo Hải Nam,với 3 cột
to,cánh buồm như rẻ quạt,theo sự ước
lượng của tôi,thân tàu chừng 5 căn phố, trên
20 mét,chạy sức gió,thủy thủ khoảng 20
người.Ngoài cửa Rạch Giá,Pháp bố trí suốt
đêm một ngọn đèn thường trực,
đặt trên cao để khi ở ngoài khơi tàu có
thể định hướng.Biển cạn, nhưng có
một lòng lạch, hai bên lạch đóng cừ khá cao
để tàu noi theo vào bờ mà không mắc cạn.Tàu ghé
vào bờ biển, làm thủ tục kê khai, đưa
một số hàng hóa lên bờ, đại đa số là
thảo dược,nhiều nhất là cam thảo,bánh
ngọt Singapo,bánh bích qui khô, dụng cụ nhà bếp
như thau, chén bằng sắt tráng men cũng từ Singapo, thêm
vải đen thô, vải may mùng, diêm quẹt(từ Thụy
Ðiển), dầu cù là (kiểu thuốc cao) hiệu con
Cọp lừng danh...
Ngày
thường, khi đến trường, học trò
ngồi trên lề đường mà chờ giờ vào
lớp, ai có tiền thì ăn nữa xu xôi nước
dừa hoặc chén mì ngọt, mì nấu với
đường.
Ðốc
học là người Pháp, về sau là người
Việt.Trường gần mé biển,nơi âm u, rác
rến,bãi bùn,cây bần mọc um tùm;một ngôi nhà
dưỡng lão, nửa đóng nửa mở, mặt
tiền day ra biển.Mấy năm ròng rã, hằng ngày tôi
thấy một ông lão hiền lành không nói chuyện, miệng
cười tươi đi qua đi lại trước
cổng trường,quần áo xơ xác, đeo một xâu
dài chừng vài chục chiếc guốc phế
thải,từ cổ lòng thòng xuống tận
gối,học trò gọi ông là già Khá, tên của ông. Ai cười,
ông cũng cười theo.
Ở
trường tỉnh, đã thấy sự phân hóa rõ rệt
giữa học trò giàu và học trò nghèo. Ðứa giàu mặc
sạch sẽ,lắm khi mặc kiểu Âu phục, lại
đi chiếc xe đạp nhỏ, ít thấy,từ Pháp
nhập qua.Thầy giáo cũng đủ hạng:Vài
thầy mặc áo dài đen,quần trắng, trông nho nhã;có
thầy mặc áo sơ mi tươm tất,cổ tay gài
với kiểu nút rời màu vàng, đồng hồ quả
quít bỏ túi quần. Lại còn vài thầy mặc bèo nhèo, hút
thuốc, chiếc xe đạp rỉ sét. Bất cứ
thầy nào đi ngang qua đều được học
trò chào kính cẩn.
Phần
đông các thầy từ Long Xuyên, từ Sa Ðéc đến. Một
thầy ngày thứ năm đến dạy chữ Nho
(chũ Hán) cho một khóa riêng, không bắt buộc.Tội
nghiệp thầy nầy, nghèo quá mức, hằng ngày
đôi khi học trò thấy thầy làm phu xe kéo, đội
nón lá. Thầy từ Bình Ðịnh đến, ăn nói
giọng hơi khó nghe đối với trẻ con. Học
sách Hán Văn Giáo Khoa Thư do ông Lê Thước và vài bạn biên
soạn, từ Hà Nội gởi vào.
Tôi
đi học, nay còn nhớ câu ở bài đầu: “Gia môn tiền cao đáo ngả hà”.
Học trò vài đứa nhại lại,lúc ra sân:Môn là cái
“cựa”,cái “cựa” đi ra đi vào.Cửa, nhưng
thầy phát âm là cựa.Có đứa ác miệng hơn, nói
một câu rất chối tai, chẳng biết từ
kẻ nào đặt ra: “Nào có
ra gì cái chữ Nho,Cu li xe kéo dạy học trò”.Vào lớp
thầy đi guốc, mặc chiếc áo dài đen rách,vá
đôi ba chỗ.
Chợ
Rạch Giá như là ốc đảo thành hình trên giồng
đất cao ráo sát biển,cũng là một góc của khu
vực lớn nay gọi là khu Tứ Giác.Chung quanh ốc
đảo là đất thấp, đầy lau sậy, điển
hình là rạch Láng Tượng,xưa kia voi rừng đi
từng bầy tìm nước uống, cứ giữ
lộ trình cũ, lâu ngày đất lún xuống, tạo ra
con rạch cạn rồi sâu thêm lần hồi.Voi ăn
cỏ và uống nước rất nhiều,lại còn
phải tắm dây dưa.Nhưng nhờ vị trí cảng
biển mà thị xã Rạch Giá khởi sắc,từ
hơn hai trăm năm qua.Bị đày ải đến
nơi xa xôi,công chức Pháp vẫn sống cuộc
đời sang trọng,trái cây được tiếp
tế từ Sà Gòn,thậm chí từ Pháp.Vài người
thử trồng dây nho; xem xinh đẹp, nhưng trái quá
chua.Có câu lạc bộ đọc sách báo dành riêng cho
người Âu,thêm sân quần vợt. Vài người da màu
từng học hành đỗ đạt ở thuộc
địa Pháp bên châu Phi được đưa sang, làm
lục sự, biện lý tại Tòa án tỉnh, học
vị được tin cậy, lại có quốc tịch
Pháp. Rạch Giá bấy giờ được phổ
biến loại hoa nay gọi bông giấy (móc diều).Khi
tôi còn nhỏ nghe gọi đó là bông biện lý buổi
đầu,các vị biện lý, thẩm phán da màu về
thăm quê, mang trở lại thứ hoa khá xinh đẹp
ấy,cùng một khí hậu nhiệt đới,màu tím
sậm,(nay lại tạo ra nhiều màu),trong một chùm).
Chân
trời quê hương tôi thời thơ ấu quả là
hạn hẹp.Trong sách địa dư (địa
lý)dạy Việt Nam ta dài,với hình cong chữ S, còn
xứ Rạch Giá-U Minh nầy là nơi tận cùng của
thuộc địa Nam Kỳ, khác với phía Bắc,ngoài
Trung là xứ bảo hộ.Nam Kỳ có dòng Cửu Long
với sông Tiền và nhánh là sông Hậu khá to rộng, với
mùa lụt mà vùng Rạch Giá-U Minh chịu ảnh
hưởng không đáng kể .
Nhưng
thực dân ở đây áp bức dân ta chỉ với non
mươi tên Pháp với tiếng kèn “Tò le kèn lạ mặt
trời chiều” của lính mã tà.Hằng tháng,tôi lên Tòa
Bố (dinh chủ tỉnh Pháp, được so sánh
với dinh quan bố chánh thời xưa)chỉ thấy
sự canh phòng lơ là, quan Tây ở trong phòng riêng,trên
lầu.Cơ quan nầy xây từ xưa, vách bằng đá
xanh, đề phòng những cuộc khởi nghĩa
kiểu Nguyễn Trung Trực
mà mấy chục năm qua chưa thấy tái diễn!
Chỗ tôi lãnh tiền trợ cấp học bổng có
tấm bảng khá to,bằng đá cẩm thạch ghi danh
sách những viên chủ tỉnh Pháp kế vị từ khi
chiếm tỉnh Rạch Giá.
Chỉ
thấy những vị sau năm 1868, điều ấy
chứng tỏ khi Nguyễn Trung Trực đánh chiếm
đồn Rạch Giá có lẽ Pháp không rõ tên của
trưởng đồn, lúc ấy còn kiểu quân quản.
Trong
túi gần như không tiền, ốm yếu về thân xác
lại nhút nhát, tôi là đứa bé ở ngoại ô nên
chỉ biết dạo chơi ngoài hè phố. Bên kia rạch
là khu vực thương mãi đối diện với khu
vực phía tôi cư ngụ là khu hành chánh và quân sự.
Lần hồi dạn dĩ hơn là vì học sinh giỏi,
tôi dạo khu vực của nhà giàu. Nhiều nhà to cất
kiểu Pháp, sân rộng trồng cây cảnh, giăng đèn
điện để giới điền chủ ăn
nhậu rồi bày cuộc khiêu vũ, máy hát vang lên.Trẻ
con leo rào, bị đuổi xuống, nhưng rồi
lại bám vào rào để xem lén:cô gái mặc đầm
đang đánh đàn kiểu lạ (dương cầm) bên
cạnh là chàng trai kéo đàn cò Tây(vĩ cầm). Cạnh
biệt thự ấy còn vài ngôi nhà xưa, tủ thờ
cẩn xà cừ, có chó lớn xác canh giữ,hòn non bộ to
ngự trị giữa sân, thêm những chậu cây cảnh.
Sau
nầy tôi mới hiểu giới điền chủ ở
Rạch Giá cũng như ở Bạc Liêu-Cà Mau chẳng bao
gìờ đến thăm ruộng đất tận “vùng
sâu vùng xa”.Họ cho bà con quản lý với số
địa tô khoáng, gọi là cho “bao quá”(tôi hiểu quá,là
thông qua nơi trung chuyển). Bởi vậy,họ không
đối phó trực tiếp với đám tá điền
ở chốn muỗi mòng đỉa vắt. Ở tỉnh
hoặc ở Sài Gòn, sang trọng hơn, rảnh rang
hơn. Qua khỏi khu vực nói trên là đến cây cầu
sắt nhỏ, qua cầu, gặp “Xóm nhà mày xay lúa”, người
làm chủ nổi danh nhất gốc là thợ
giỏi,bấy giờ chỉ huy đến 7 nhà máy, khá
nổi danh vì thông thường chỉ có người Hoa
mới đủ vốn làm ăn lớn. Ông đi tới
đi lui chăm sóc trực tiếp, tôi không biết mặt
ông. Gần xóm “Nhà máy cháy” đánh dấu giai đoạn
đầu thế kỷ, khi máy xay còn chạy với
nồi sốt de chụm lò bằng trấu.Dọc theo
bờ rạch, nhiều ghe tải hạng to đậu
sẵn.Phu khuân vác lên bờ rồi trở xuống chạy
thoăn thoắt trên tấm ván nhỏ bé, vác hàng trăm kílô
trên vai mà không bao giờ té, ở trần,mồ hôi lênh láng,
đi chân đất.Hàng dãy chành lúa (nhà kho), mỗi chành dài
hơn 30 mét.
Dưới
mé rạch,nhiều nông dân chở lúa tới bán, trên
chiếc xuồng nhỏ, thuận giá thì đưa lên
bờ, từng đống nhỏ cỡ 20 giạ (400
kílô),trông bé bỏng.Tôi chợt nhận rằng hàng ngàn tá
điền làm lụng cực khổ, nếu không mất
mùa thì mới đủ khả năng đưa lúa vào
dự trử chỉ trong chành! Và đây chẳng phải là
dân của vùng U Minh, sinh quán của tôi!
Tỉnh
Rạch Giá to rộng, ngoài rừng U Minh còn nhiều vùng
đất bao la ở phía Ðông, ăn qua sông Hậu,
đất tốt,cao ráo tương đối,nhờ
đào kinh thủy lợi ngang dọc nên trở thành
vựa lúa phì nhiêu,nuôi giới điền chủ Pháp và
Việt, ở tỉnh nhà và các tỉnh khác,con cái họ du
học bên Pháp là phải.Chưa kể đến những
điền chủ các tỉnh lân cận như Sóc Trăng,
Bạc Liêu. Ðiền chủ hạng sang từ chợ
quận ra tỉnh cứ dạo tới lui ngắm nghía
mấy kiểu nón nỉ chưng bày trong cửa hiệu, nào
nón hiệu Fléchet, Borsalino bằng nỉ, vành nón bẻ
xuống hạ thấp một bên. Có tàu kéo dắt ghe lúa
đi Sài Gòn, nhỏ thó nhưng kéo nhanh những ghe tải
chở gạo, khẩm lừ ,ghe loại to,phía sau lái làm
nơi cư trú với tủ thờ ông bà, thờ Thủy
Long,trên mui còn nuôi chó,gà chọi , lại còn chậu cây
cảnh, hoặc trồng hành ớt...Con rạch trở nên
nhỏ bé,bên bờ nào người bán chè,cháo...chen chúc
với ghe xuồng nhỏ của người từ
miền quê lên, chèo chống khó khăn, giữa bầy
ngổng kêu oang oác.Bên kia bờ là trại cưa xẻ
ván,cột gỗ, trại bán quan tài. Nhìn về phía sông
Hậu, thấy đất bao la,Sài Gòn ở phía Ðông Bắc,xa
hơn 200 kilômét, mỗi ngày có 4 chuyến xe khách khá to đi
và về,mỗi chiếc chở hơn 40 người,thêm
người ngồi trên mui và vô số hàng hóa,vun lê
Tiếng
tù và trổi từng chập như tiếng thời gian
từ kiếp nào vọng về tương lai.Những
chiếc ghe khá to, không mui,chở đầy nước
ngọt từ phía sông Hậu chảy về. Nước
ngọt dược chuyển đến vùng quê,rừng
rậm phía Nam của tỉnh để “đổi” cho dân
làm nước uống,nấu cơm,nơi nước phèn
mặn, đào giếng chỉ gặp toàn nước
lợ.Họ làm nghề “đổi nước”,dùng
tiếng đổi để tránh cái tiếng “bán nước”. Nước
đổi từng thùng 20 lít,(loại thùng đựng
dầu lửa) với giá khá cao vì đường xa, chèo
chống nặng nhọc,chậm chạp. Người dân
mãi nhớ ơn Thoại Ngọc Hầu,công thần nhà
Nguyễn để khởi xướng việc dùng
sức của dân phu mà đào kinh. Nước ngọt
tới đâu, dân khẩn hoang tới đó.Con người
có thể nhịn ăn một ngày một buổi nhưng
không thể nào nhịn khát. Nước ngọt rất
cần để nấu cơm, canh. Sau nầy
người Pháp vẫn theo định hướng ấy
mà đào kinh Cái Sắn đưa nước ngọt
đến ngọn sông Cái Lớn. Ðã xây cất ngôi chùa Tam
Bảo, tương truyền do một bà lão từ
thiện, khá giả nhờ mua bán lúa gạo ở
địa phương, đã cống hiến cho chúa
Nguyễn – lúc bại vong vì Tây Sơn truy nã - những
cuộn tơ tàm quí giá để làm quai chèo thắt
bằng gai, bằng bố (đay).Nhắc lại kẻo
quên,qua nhiều đời hòa thượng trụ trì là
Nguyễn Văn Ðồng chứa chấp, đã chế
tạo kiểu tạc đạn thủ công nhằm
chuẩn bị khởi nghĩa võ trang,trong phong trào Nam Kỳ
1940.Cơ mưu bị tiết lộ từ phía Sa Ðéc, bọn
mật thám bao vây chùa vào quá nữa đêm. Một cán bộ
gốc là tu sĩ Thiện Ân bị địch bắt treo
lên xà của nhà chùa để tra tấn, trong khi phía
dưới chân là cái bàn,nơi giặc gom lại kiểm kê
số tạc đạn đã chế biến.Thầy Thích
Thiện Ân hai cườm tay bị trói phía sau lưng treo lên
đã can đảm thò chân xuống mà đạp một góc
bàn, bàn ngã xuống,tạc đạn rơi vãi, nổ
ầm lên gây thương tích cho tụi mật thám.Thầy
bị xử tử, hòa thượng Nguyễn Văn
Ðồng bình tỉnh nhận tội, bị đày ra Côn
Ðảo,chết ngoài ấy vì bịnh.
Chùa
ở ngoài ven khu vực nhà máy và chành lúa lớn như là
sự cổ vũ cho phong trào cách mạng tận nơi xa
xôi,l úc mà đa số dân lao động chỉ nghe chớ
chưa biết sơ qua chủ nghĩa cộng sản là
gì.
Cách
xa chùa Tam Bảo một đỗi,còn ngôi chùa xưa của
người dân tộc Khơme rộng lớnvà khang
trang,người Khơme ở chung quanh, khu vực ấy
gọi là Láng Cát, vùng cát dỏ mầu mỡ, thấp, gầnvùng
ruộng phì nhiêu.Lại còn mảng đất cao ráo với
mạch giếng nước ngọt mà người Hoa
trồng rau cải, ngoài ven thì trồng khoai lang. Họ kiên
nhẫn và chịu cực hơn người Việt. Làm
việc không nghĩ trưa, ở trần dưới
cơn nắng lửa, húp tô cháo nóng hoặc ăn khoai lang
luộc cho gọn và không mất thời gian làm việc, họ
gánh hai cần xé đựng đầy khoai,với cây
đòn thẳng, bằng cây danh mộc,tương
đối to, như ngọn roi của võ sĩ, không làm
bằng tre với hai đầu cong cong.
Vì
cha mẹ và ông nội ở tận miền quê từ xưa
nên tôi chẳng có người bà con nào gần xa ở
chợ.Tôi đưọc tha hồ rong chơi. Tại tỉnh lỵ, mấy
năm ấy thường tổ chức Hội chợ
triễn lãm với nhiều tiết mục giải trí.
Ðiền chủ Rạch Giá thường đóng vai bảo
trợ (gọi là Mạnh Thường Quân) cho nhiều võ
sĩ tiếng tăm, thí dụ như Lê Hữu Vĩnh
người quê U Minh.Người vùng lân cận đến
tranh tài. Năm ấy,tại Hội chợ bày ra cuộc
đánh võ khiêu khích.Võ sĩ quyền Anh,người da màu là
Kid Chocolat đánh với võ sĩ ta là Sáu Cường
của Trà Vinh.Kid Chocolat tìm cách nhập nội cho gần
để đánh những đòn móc quai hàm rất lợi
hại, nhưng Sáu Cường đã dùng ngón đá ngàn cân, phòng
thủ từ xa.Kid Chocolat té lăn cù nhưng ngồi
dậy nhanh chóng,xốc tới.Rốt cuộc,Sáu
Cường thắng điểm rồi đi một
đường quyền khá đẹp, Sáu Cường cao
ráo,tay chân khá dài,thỉnh thoảng nhảy cao như con chim
đại bàng!Tôi lấy làm hãnh diện cho dân tộc, cũng
như bao nhiêu khán giả. Mặt bằng của Hội
chợ là vùng đất quá thấp,trên bãi biển còn
nhiều gốc bần hoang vu,nơi Nguyễn Trung Trực cho mai
phục nghĩa quân hồi mấy mươi năm trước.Bần
thuở ấy đã già nua,ngã xuống vì phù sa quá
mềm,thêm sóng gió triền miên. Ngôi đình thờ Nguyễn
Trung Trực
vẫn còn đó, trừ ngày Kỳ yên, còn bình thường
thì mở cửa he hé, đến chạng vạng, ông
từ đốt nhang le lói. Ðất Rạch Giá khá xưa, ngay
cử biển sẵn có ngôi miếu thờ cá ông (cá voi) và
sắc thần, sau khi họ Nguyễn mất,dân làng và nhân
sĩ tự động tôn vinh Nguyễn Trung Trực làm
người đại diện cho “ông bà đất
nước”.
Nghe
người lớn bảo như vậy, ban đêm tôi
chẳng dám đi ngang qua đình một mình vì sợ ma nhác.
Vào xem Hội chợ,may mắn gặp gian hàng chưng bày
bán “sữa đặc có đường”hiệu con Chim(Nestlé).
Một người Pháp đứng gần hàng trăm
hộp sữa nhìn tôi rồi gật đầu chào.Nhờ
đã học đôi tiếng Pháp,tôi ngỏ lời đáp
lễ. Ông trao cho tôi một xấp giấy quảng cáo, khổ
nhỏ,bảo đem phân phát cho người đi
Hội chợ,và đưa lập tức cho tôi một
hộp sữa nhỏ bé,như bù lại công lao. Mừng
quýnh bèn phân phát, làm xong công việc một cách tắc
trách,tôi trở lại,xòe hai tay trắng. Ông ta thích chí, tặng
tôi một hộp sữa thứ nhì...Tôi về nhà, cất
kỹ lưỡng,chờ gởi về U Minh cho mẹ, gọi
là báo đáp công ơn dưỡng dục. Ðây là lần
đầu tiên mà tôi thấy mình quá ư là có ích lợi cho
gia đình.
Cứ chiều chiều, dọc theo bờ Rạch Giá,tôi
lưu ý đến số người ngồi trên bờ có
kè đá, đờn ca Vọng cổ trông tao nhã lắm,
đôi ba người đàn,thêm vài cô ca hát. Ðây là kiểu
măng cầm (mandoline) mà hồi mấy năm
trước đó, thầy giáo Tiên (con điền chủ)
thử nghiệm đổi dây, gọi dây Tố Lan
để đàn Vọng Cổ thay vì đàn Tân nhạc.Sau
đó mới có người dùng đàn ghi-ta. Trên
đường đến lớp học, hằng ngày
đi ngang tiệm bán baza (hàng tiêu dùng cao cấp) cũng là
nơi bán sĩ các loại máy hát nổi danh Columbia, Pathé, nghe
mấy đĩa hát Vọng Cổ đã kéo dài từ
nhịp tư, lên 16, khá lãng mạn.
Lúc
rãnh rang tôi di chơi về phía Bắc thị xã, lên
hướng Hà Tiên có con kênh do xáng đào, khoảng 80 kilômét
bắt đầu con kinh nầy là kinh Núi Sập khá
xưa,lừng danh,do Thoại Ngọc Hầu mở
ra.Nước ngọt chảy từ rạch Long Xuyên
đến rạch Sóc Suông (sử ghi Khe Sông,Suông).Nơi
đây ruộng tốt, nước ngọt quanh năm
với ngôi chùa Thập Phương.Theo bờ kinh,nhà
cửa rải rác, sau nhà là vùng nay gọi là Tứ giác,hoang
vắng và thấp. Vài vùng trũng nổi danh tên là Lung cá
bông, Dầy heo (heo rừng).
Bầu
không khí hoang vắng, với chim cò bay rải rác trên
đồng cỏ ngút ngàn, thấy vui mắt, không như
vùng rừng U Minh phía Nam. Ở đâu cũng là đất, cũng
là trời,nhưng chân trời phía sông Cửu Long quả là
mở rộng, đầy ánh nắng. Phía U Minh Cà Mau
rừng rậm cũng là chân trời,giáp mí giữa ngọn
cây tràm và trời cao,nhưng phía Sài Gòn,Long Xuyên, sông Cửu
Long mà tôi học sơ sài trên bản đồ nhà
trường,vùng đồng cỏ quá thấp,thấy rõ
chân trời là một đường thấp với
bầu trời cao.Phía đồng cỏ nầy, khi mới
đào những con kênh nhỏ, người đi khẩn
hoang nghe đâu đã bố trí vài trận xung đột, trang
bị với phảng phác cỏ, giáo mác chống bọn
tay sai của giới điền chủ đang ăn
chơi ở Sài Gòn. Chợ Rạch Giá quả là một
ốc đảo tương đối phồn thịnh
nhờ lúa gạo tập trung và cá biển.Pháp mở con
lộ xe đi Sài Gòn trễ nải nhất so vơi các
tỉnh lỵ ở Nam Bộ, đâu vào khoảng
trước năm1930. Vài đứa học trò từ vùng
hoang nầy đến ở trọ nhà bà con tại
chợ,cùng học một lớp với tôi.Thỉnh
thoảng chúng nó rủ tôi đến thăm nhà cha mẹ,
ăn cá nướng vào mùa lụt.Trời biển mênh
mông,lác đác vài ngọn lau sậy nhô lên mặt
nước,còn loại cỏ bình thường thì
vươn lên rồi sập ngã theo ngọn sóng để
tìm khí trời. Mùa ấy,chuột thỉnh thoảng
xuất hiện từng bầy, lội loi choi, con nầy
cắn đuôi con kia, tiến tới chậm chạp vì chân
chuột quá nhỏ, không đủ sức quạt
nước. Ðoàn kết tạo ra sức mạnh.Từ
trời cao,vài con ó biển bay lượn, đáp xuống
,dùng móng sắt quắp vài con chuột và bay lên cao.Thế là
sợi dây của đàn chuột bị cắt đứt
tạm thời,nhưng lát sau chúng nối lại tiếp
tục hành trình, chẳng ai biết chúng xuất phát từ
đâu và sẽ đến đâu.Chuột ăn cỏ non
và phải ngủ trên đất cao ráo.Vài rặng cây ở
xa xa, đáng dấu bờ con rạch nhỏ nào
đó,dường như có người ở, đơn
chiếc giữa nhưng ngọn sóng to dồi dập.Bà con
chỉ cho tôi:
-Cháu thấy ở đàng xa cái gì
đen đen đó không?
Quả
thật ở phía chân trời, phía Ðông, dường như
có chiếc thuyền nào đó, một vệt nhỏ và dài.
-Ðó là người chết, không đất mà chôn, vùng
nầy nước sâu không đều, có nơi đến
4 thước.Chết thì nhờ mấy nhà ở gần bó
thây lại với chiếc chiếu rách,cái nóp bàng. Rồi
xóc cây dưới nước, xóc tréo,treo cái xác lên cao. Mấy
ngày đầu còn thắp một ngọn đèn dầu
lửa bên cạnh, để cho kẻ nào đến
gần thì tránh xa và để nhớ vong hồn
người chết.Lâu ngày, hết tiền mua dầu
lửa.Quạ diều bu lại, đậu trên thây mà
rỉa, mà xỉa xói. Rồi thì thây ma chảy nước, cá
trê bu lại từng bầy mà uống;
Tới
mùa nắng sẽ tính chuyện đem chôn đâu
đó.Buồn lắm! Năm ngoái, vài con sấu cá, nhỏ
con, tới lui gần nhà nầy.Mình đuổi,nó chạy
trốn nơi khác. Xứ của “rắn độc, thuồn
luồng” mà.
Về
đêm, lắm khi nhìn thấy khói lửa bốc lên từng
cụm phía kinh Rạch Giá – Hà Tiên.Tàu kéo dòng rheo phía sau hàng
chục ghe tải thứ to, chở đầy củi tràm
đốn ở mé biển, đưa về chợ
Cần Thơ,bờ sông Hậu, để phân phát cho các tàu
thủy,chụm nồi hơi nước chạy khắp
miền Hậu Giang và những chiếc tàu lớn nghe
đâu chạy tới Cao Miên, tận Biển Hồ.Trên
ấy nhiều người Việt làm “bạn biển”, tức
là làm công cho bọn thầu huê lợi cá tôm,tiền thì
khá,nhưng rủi đau ốm, chết chóc thì cũng treo
xác, lắm khi chẳng ai trở lại chôn xuống
đất.
-Chim
bay về núi tối rồi, Sao không lo liệu, còn ngồi
chi đây?
Về
sau, có câu hát:
-Chị em lo liệu lấy
nồi nấu cơm.
Có
lẽ xuất phát từ miền Trung, là câu ca dao một
thời khá phổ biến ở vùng Tứ giác nầy, khá
hiện thực vì ở chân trời, phía biên giới có dãy
đồi lấy tên Thất Sơn,thêm hai tiếng
“huyền bí”.Rồi dãy đồi lại dính dấp
đến ven biển vịnh Xiêm La với đảo Phú
Quốc và nhiều đảo nhỏ, ngoạn mục
nhất là hai viên đá nghiêng nghiêng được
đặt tên Hòn Phụ Tử,cha con xa nhau, đến
đây lại trùng phùng vĩnh viễn.Nơi chân trời
góc biển với đồng cỏ hoang vu mãi đến
nay khai thác chưa xong (phèn mặn, úng quá sâu) các nghĩa quân
thời “đảng cựu” hồi thế kỷ 19 gom
về, suy nghĩ bao la nhưng bế tắc.Họ chỉ
thấy chốn “địa linh nhân kiệt” nầy là
tương lai của Việt Nam (có lẽ họ chưa
bao giờ được đến tận Sài Gòn)càng nhìn
lên cao,càng thoát tục,họ tin rằng cuộc đời
Nghiêu Thuấn sẽ trở lại,sau ngày Tận thế
gần kề, hội Long Hoa sẽ mở ra,chốn
nầy sẽ là thủ đô của ...toàn thể
địa cầu vì ngọn sông Cửu Long ở Tây
Tạng là nơi cao nhất của toàn cầu,chư tiên
chư phật và các đạo sĩ từ lâu đã
quyết định rồi! “Lo liệu”, còn ngồi chi
đây?Ngụ ý nên dựa vào thần quyền. Ðất
sẽ lở, núi lửa sẽ dậy lên.
Ai
lo tu hành thì được cứu rỗi.Cuộc
đổi đời sắp xảy ra trong vài con giáp
(một con giáp là 12 năm)hoặc trong giây lát nữa
biết đâu chừng, vì Tiên Phật dùng thứ lịch
riêng, không như lịch củ người đời.Hai
tiếng “đổi đời”là kiểu “tâm lý chiến”
được lan rộng, đánh vào tâm linh, tiềm
thức của nông dân vùng biên giới ít ai biết
nầy,gợi ý nghĩa thay đổi cuộc dời,
đời là sự thống trị của thực dân
với chế độ hà khắc. Thực dân đã thay
đổi “cuộc đất” tức là phá hại phonh
thủy,chúng mở lộ xe bắc cầu, đào kinh.Tàu
thủy buổi đầu được xem như
những con thú dữ thời cổ sơ hiện về.
Ông lão chủ nhà cứ hút thuốc liên tục, cánh tay
để trần thấy xăm con số 1912 (phải
chăng ông bị cầm tù vào năm đó?).Biết tôi là
học trò bèn kể dông dài chuyện liệt sĩ
Nguyễn Trung Trực
đột kích tỉnh lỵ Rạch Giá năm 1868. Bấy
giờ 2 tên lính Pháp chạy thoát ra ngoài vòng rào rồi len
lỏi đến tận nơi đây. Xóm thưa thớt,
đôi ba căn nhà xa nhau, người làm nghề bắt cá,
đánh lưới, gặp căn nhà nọ tương
đối rộng rãi, chuyên bán tạp hóa,chủ là
người Hoa lai Khơme, ông chủ nầy lúng túng khi
thấy vào hừng sáng có hai tên Pháp chạy đến,
đành chấp nhận cho tá túc ở nhà bếp. Hai hôm sau
Pháp tái chiếm tỉnh lỵNguyễn Trung Trực chạy ra
đảo Phú Quốc. Ông chủ tiệm tạp hóa
đến gặp quân Pháp, đưa hai tên lính Pháp trở
về,hai người Pháp duy nhất còn sống sót.Thế
là khen thưởng,chủ tiệm tạp hóa
được phong chức cai tổng,tha hồ khoát
nạt dân, xin trưng khẩn những phần đất
tốt trong tỉnh, mãi đến cháu nội cũng còn làm
giàu, có đứa du học bên Pháp, mang bệnh chết bên
ấy.Và mấy đứa cháu ở thế hệ sau tích
cực ủng hộ cuộc tái chiếm tỉnh Rạch
Giá sau Cách Mạng Tháng Tám, lập công lớn với
thực dân.
“Tò
le kèn lạ mặt trời chiều”.Tiếng kèn tự nó
vô tội nhưng đối với người năm sáu
mươi tuổi vào buổi ấy,tự trong tiềm
thức vẫn man mác nổi nhục mất nước
thời xưa,do cha mẹ,chòm xóm nhắc lại.Lần
hồi thấy thực dân Tây Phương quá mạnh,quá
giàu, sự bi thảm của những thế hệ
trước chỉ còn lâng lâng.Phải hội nhập
dầu sớm hay muộn vào bộ máy kinh
tế,thương mại của thực dân để
tạo ra một cuộc sống bình thường,nhưng
ray rứt khi thấy ông Cử Trị còn đó,nghĩ già
ở Phong Ðiền (Cần Thơ),hiền lành, than thở:
“lênh đênh bèo nước biết về đâu?”. Ðây là giai
đoạn mà bài thơ Từ Thứ Qui Tào của Tôn Thọ Tường lại
được phổ biến! “Hiếu đâu dám sánh
kẻ cày voi.Muối sát lòng ai nấy mặn mòi... “Chẳng
đạng khôn Lưu đành dại Ngụy”.Các vị
điền chủ và công chức Tây học thi nhau họa
vận,lấy vần oi,thoi, rồi, còi voi, rung đùi hãnh
diện. “Tân nầy xin gác ngoại vòng thoi”.(Tôn Thọ
Tường).Làm công chức, điền chủ thì ung dung,
đúng cơ hội, không theo Tây phương quá sớm
như Tôn Thọ Tường,và vẫn kính
nể cụ Ðồ Chiểu xa xưa qua Lục Vân Tiên.
Lần
hồi, kinh tế phát triển, họ thấy chân trời
rộng hơn. Phải Duy Tân, phải Ðông Du rồi học
bài học chua cay.
Bản
Dạ cổ hoài lang
xuất hiện và phát triển hàng đôi chục năm
mới tạm định hình.Thoạt tiên, người
chưa hội nhập với khung cảnh đặc thù
của đồng bằng Nam Bộ thấy như lạ
tai, ngoại lai,nhưng lần hồi nhiều
người nhìn nhận nó. Có lẽ hơi hướm
đầu tiên của nó là bản Hành Vân ngắn
gọn,từ Huế đưa vào một khu vực có
cổ nhạc thịnh hành ở Long An. Rồi nhạc
sĩ Cao Văn Lầu
gặp hoàn cảnh buồn bực của gia đình,vì nghèo
túng phải tha phương xuống tận mũi Cà
Mau,với tay nghề,với tâm hồn mở rộng, ông
hội nhập dễ dàng với người Hoa (triều
Châu) đang chiếm tỷ lệ đáng kể tại
Bạc Liêu.Nhờ học thêm nhạc lễ với ông
Nhạc Khị (Khởi), ông hoà đàn cùng bạn bè,hành
nghề nhạc lễ để mưu sinh.Nhớ
đến người vợ mà cha mẹ không hài lòng vì
không sinh con nối dõi, ông đau khổ vô cùng thử
soạn ra bản Dạ cổ hoài lang để giải
sầu. Ðó là lời suy luận có cơ sở nhất.
Hồi
trước 1975, tôi nhiều lần gặp ông cùng trò
chuyện vui vẻ.Bấy giờ ông đã già,l ên Sài Gòn theo
lời yêu cầu của một số nghệ sĩ
cải lương. Anh em bày một buổi ra mắt
giới thiệu ông là người đầu tiên sáng tác
bản Dạ cổ hoài lang.Lên khán đài,anh em hoan hô
nhiệt liệt, ông mặc quần áo bà ba bằng lãnh
đen, đờn bản Vọng cổ với cây đàn
cò.Về nhà trọ, ở Thủ Thiêm (bấy giờ thi
sĩ Kiên Giang Hà Huy Hà cất sẵn căn chòi cùng tá túc
trong thời gian không dài).Tôi tò mò hỏi cho rõ, ông bảo là
người đời muốn sửa như thế nào tùy
ý,riêng ông thấy ngạc nhiên, không dè mình đã dựng
được “một cái sườn nhà đon sơ
nhưng vững chắc”. Ông bảo đó là ít nhiều
ảnh hưởng của nhạc Triều Châu.Buổi
xưa ấy, người nông dân nghèo gốc Triều Châu
đến vùng Bạc Liêu khá đông.
Cứ
mỗi chiều,họ tụ tập từng nhóm hòa
nhạc,thỉnh thoảng có hát. Buổi đầu, bản
Vọng cổ chưa được phổ biến,vì câu
ngắm gọn quá. Ðến khi có Năm Nghĩa (Lư Hòa
Nghĩa) hát với câu dài, phóng khoáng hơn,làn hơi
muồi... đổ hột,thí dụ như ơ ơ
ơ thì thiên hạ hoan nghinh rồi phong cách ấy
được tán thưởng tận Sài Gòn, nghe du
dương, man mác hơn.
Lư
Hoà Nghĩa là người gốc Hoa, nghệ danh là Năm
Nghĩa. Hỏi về cái tên Dạ cổ đổi ra
Vọng cổ, ông
Sáu Lầu cứ cười, có người
bạn đáng tin cậy cho rằng đổi Dạ
cổ ra Vọng cổ, gọi Vọng cổ Bạc Liêu
–là Mộng Trần Lê Chân Tâm, từng làm thơ,làm báo (báo
nhỏ,Sống Chung) quê ở Long Mỹ (Rạch Giá,Kiên
Giang)thì ông Sáu
Lầu bảo rằng “có lẽ như
vậy “.Từ khi bản nhạc nói trên phổ biến, ông Cao Văn Lầu
ít giao thiệp ngoài tỉnh Bạc Liêu.
Ðời
Ðường thi hào Bạch Cư Dị, lúc bị đày
đến quận Cửu Giang, sông Bồn, đã sống
buồn bã giữa dân quê mùa,nơi chẳng nghe những
bản nhạc sang trọng ở kinh kỳ. Ðây là chốn
“lau lách đìu hiu”, lau vàng,tre trúc khô cằn,sớm tối
chỉ nghe cuốc kêu sầu,vượn hót nỉ
non,nhạc dân gian có lẽ của người dân tộc
thiểu số ở địa phương chỉ là “ca
rừng địch nội,giọng líu lo nhiều nổi
khó nghe”.
Ở
khu Tứ giác Long Xuyên -Rạch Giá mà tôi đã tham gia tuy có
người dân tộc Khơme nhưng người
Việt tha phương cầu thực vẫn cảm thông
nhau qua tiếng đàn cò, đàn độc huyền,
điệu lý, điệu hò nhất là nhưng câu hát
đối đáp của ghe thương buôn qua
lại,thời buổi giao lưu thị trường .Pháp
đến,tổ chức hệ thống kinh tế hàng hoá,
kinh rạch nối liền từ Cà Mau lên Chợ
Lớn,Sài Gòn.Ca nhạc Huế du nhập buổi
đầu dường như chỉ có sự sâu lắng
nhưng thiếu chiều dài, man mác đến chân
trời,nhất là sự nhẹ nhàng. Bản Tứ Ðại
Oán được lưu ý trong những buổi gặp
gỡ để trình diễn nhạc tài tử phía ven
bờ sông Cửu Long trù phú, có tàu thủy giao lưu
trực tiếp với Sài Gòn. Phía Hậu Giang, Cà Mau tuy thông
vận tải khá xa, phiền phức nước
ngược nước xuôi nhưng nhiều người
chấp nhận,hợp tình hợp cảnh. Ðược
đi đến tỉnh lỵ Bạc Liêu hoặc Rạch
Giá là điều ao ước lớn, may ra một đôi
năm được đôi lần. Ðối với
người dân lam lũ xứ U Minh, kẻ có oai quyền
lớn nhất chỉ là vài vị hương chức
hội tề, điền chủ, nhân viên kiểm lâm. Phải
chèo ghe, che tạm cái mui giả kết sườn tre hình
vòng cung, trên sườn chải chiếc chiếu rách,phía
sau lái trữ củi,gạo,thức ăn,trước
mũi là bếp un khói để xua bầy muỗi rừng
ào tới từ hoàng hôn cho đến sáng! Xuồng chèo
tắt ngang sông Cái Lớn, lúc qua vàm, chợt giựt mình vì
mặt biển Vịnh Xiêm La ngoài kia quá bao la,cao hơn
mặt đất,hơn mặt bờ sông trong
nầy. Sóng đánh bò vòi, xuồng
ghe bé bỏng, đành chờ đợi nhau để
vượt qua một lượt, xuất phát thì mạnh
ai nấy cố gắng, chẳng ai chờ đợi
để tiếp cứu nhau. Vài phen ngọn sóng tạt vào
xuồng ghe nhưng không sao, chỉ sợ khi nao gần
tới bờ bên kia lại gặp những lượn sóng
cồn,cao nghệu, xuồng ghe gần nhau mà không thấy
nhau. Vào bờ bên kia, gặp con rạch ngắn nhưng
đầy sóng gió, gọi Tắc Cậu, bên bờ là
miễu thờ Cậu (con bà chúa Xứ )nghe đồn
rằng trước cửa miễu là nơi thỉnh
thoảng hai con ngỗng thần nổi lên,báo hiệu sóng
lưỡi búa sáp nhận chìm ghe xuồng qua lại. Phía sau
miễu,mấy năm trước dân làm rẫy đã
săn được con cọp.Dân cất nhà xúm xít,hàng cây
bần cổ thụ gốc to, nghiêng ngửa trên
đất bồi, bầy khỉ rừng qui
tụ,miệng la chót chét, hái trái bần còn xanh ném xuống
mầy chiếc ghe đang đậu lại nấu
cơm.
Chợ
Rạch Giá hiện ra dần dần nhiều xuồng
nhỏ bơi tới bơi lui, sát bên ghe khách vãng lai
để mời mọc ăn chè, ăn bánh canh ngọt, bánh
canh mặn, nước ngọt(gọi là rượu
bọt bỏ ve,hoặc xá xị).
Ghe
xuồng giảm tốc độ di chuyển để
tránh đụng chạm nhau.Người trong ghe ngóng cổ
ra ngoài xem cảnh chợ náo nhiệt trên bờ,rồi
nhanh nhẹn vào mui thay quần áo,bộ quần áo
đã giặt kỹ, xếp ngay ngắn, dằn
dưới chiếu, hằng đêm ngủ lên trên cho
thẳng thớm. Miền quê thuở ấy chưa ai xài bàn
ủi (bàn là)họa chăng vài nhà điền chủ
lớn mà thôi.Cha mạnh dạn đi trước, khép nép
sát bên lề, hai đứa con trai theo sau, còn nắm tay nhau,
sợ đi lạc, nhưng mươi bước sau
thấy dạn dỉnh.
Chỉ
phiền cho đôi guốc gỗ, đứa anh thì đi
được, tuy đau nhói vì đôi quai hàm làm bằng da
heo (thuộc cho cứng ở Chợ Lớn ), làm phồng
da, đứa em thì cứ xách đôi guốc vào tay, đi
chân đất,gọi thế nhưng là đi trên
đường tráng đá,tuy nóng nhưng dễ
chịu.Lần hồi,hai cậu bé (bóng dáng của
người viết hồi ký nầy )thấy dạn
dĩ hơn vì chung quanh tuy có người giàu nhưng còn quá
nhiều đứa bé lam lũ,lặn hụp dưới
con rạch mà nước dơ đổi ra màu đen.Bóng
dáng của những người vác lúa.Họ còng
lưng,mồ hôi chảy ròng ròng. Sát bên lề
đường là quán nhỏ, che lá rách, bán thức ăn, thức
uống cho dân lao động. Ðến nhà quen,tạm trú
một đêm, đêm ở chợ, áo nhiệt quá, trẻ
con đùa giỡn dầy ngõ hẻm, nhà chật, cứ
ngồi co rút trong nhà. Vài đứa trẻ rủ đi
chơi, ra đường cái.
Ðến
mé rạch, bờ kè đá, thấy nhóm người dụm
lại đờn ca. Ai cũng biết đờn ca
Vọng cổ, với đàn kìm, đàn cò...Họ thay phiên
nhau hát, điệu nhạc buồn nhưng nghe cũng vui
vui, nhờ điệu bộ diễn xuất,vụng
về nhưng như thật, gương mặt của
kẻ bị phụ tình...Cử tọa mĩm cười.
Cử tọa là đám bình dân, quần áo vừa chỉnh
tề vừa buông thả, nút áo ở cổ không gài, áo bà
ba, họ là phu vác lúa, có người là phu xế (gọi là
lơ xe đò,xe khách )có kẻ hút thuốc liên miên. Họ
hứa lần sau sẽ đem thêm rượu và thức
ăn nhậu.Vài người qua lại đứng nhìn, dường
như chê bĩu. Nhưng Vọng cổ đem lại cho
họ niềm tự tin về nhạc Việt Nam.
Lớn
lên,t ôi mới hiểu thêm đây là sức mạnh của
vô thức, tiềm thức. Ai mà biết hơi hướm
của bản nhạc còn thô kệch nầy đã cò từ
buổi người xứ Huế than thở cho số
phận của công chúa Huyền Trân “mượn màu son
phấn, đền nợ Ô Ly”qua nhịp phách khoan thai, rồi
đến đá Vọng Phu, Phú Yên.
Bấy
lâu nay, ở vùng sông nước chằng chịt với
chợ làng,chợ nổi ven sông, đêm thanh vắng
những câu hò,câu lý xen nhau dài theo con rạch,con kênh gần
như vô tận,qua khúc loi khúc vịnh,về đêm,trên nhánh
“bần gie có đóm đậu sáng ngời”.Lấy nỗi
buồn sâu kín của kẻ chịu đi xa,thật xa
để làm ruộng gần như không ngày về,
để làm vui!Bản Vọng cổ nhờ nhiều
địa phương,nhiều giọng hát điều
chỉnh lại hơn 10 năm sau mới tạm
định hình, để lấn chiếm từ từ
bản Tứ Ðại Oán.Sáng tạo là mở rộng,ai hay
đó là nhạc Việt Nam hội nhập với hơi
hướm nhạc Ðông Nam Á của khối Ấn Ðộ, Chiêm
Thành dễ nhận ra tuy đã nhuần nhuyễn, trở
thành một thứ dân ca cao cấp của vùng đồng
bằng và cả Nam Bộ. Giọng ca phải “muồi
mẫn”,theo nhgĩa là lãng mạn,buông thả tự do
nhưng giữ chắc nhịp.
Người ca ở mức trung bình có thể tự
nhận là kẻ tài tử, để rồi rèn luyện
kỹ thuật, giữ “điệu nghệ”tức là
kỷ luật nội bộ lúc giao du với các bạn tài
tử khác.Ca không phải để kiếm tiền nhưng
là để “di dưỡng tánh tình, theo nghiã thư giãn, giải
toả những bức xúc vì sinh kế làm ăn tư
bản thực dân đang chế ngự. “Thiếp tâm
cổ tỉnh thủy”.Câu thơ Ðường mà sau nầy
tôi đọc được nhắc nhở mãi một
điều quan trọng. Lòng dạ người thiếu
phụ giữ chung thủy với người yêu,sống
thầm lặng như nước giếng mát lạnh,không
nhơ bợn, ở đáy một giếng xưa, vô danh, qua
sự thử thách của thời gian.
Một
thái độ bảo thủ quí giá, đanh khiêm tốn.
“Ếch ngồi đáy giếng, thấy bao lăm
trời”. Ra khỏi miệng giếng để mở
rộng tâm hồn nhưng nên nhớ mãi những gì quí giá mà
mình đã hấp thụ được ở đáy
giếng. Ðể lần hồi thấy “chốn quê
hương hơn cả.” Ðáy giếng xxua xem như
chẳng có giá trị,nhưng lắm người không có
được cái giếng ấy để làm chuẩn,
đối chiếu với những gì rạng rỡ,mà
lắm khi phù phiếm trên bầu trời, đó đây. Vùng
nông thôn quê mùa lắmkhi là khởi hứng của
người làm văn chương thi phú.Và đối
với đứa học trò nhỏ, sinh trưởng
ở thành thị thì cái thành thị buổi xưa vẫn
là nơi quê mùa,một thứ “thiên đường thơ
ấu”.
Rạch
Giá, xứ quê của tôi là con rạch mà nơi cửa
biển mọc nhiều cây giá nguyên sinh, không có cây
đước với rễ chằng chịt từ trên
cao mọc tua tủa, cắm xuống bãi như ở Cà
Mau.Nước biển tại Rạch Giá thiếu
độ mặn để làm ruộng muối. Cây giá
ấy gần như không còn, họa chăng ở mạn
Nam bờ Rạch Giá, ăn xuống phía Cà Mau. Rải rác vài
cây khá to,lá xanh và lá mà máu chen nhau trên một cành,về già,lá
giá đổi ra màu đỏ,tươi mát chớ không
đổi ra lá vàng. Rễ cây giá không to, cứ chằng
chịt quấn vào nhau theo vòng tròn, trông như ở
dưới gốc có mang theo một cái lốp xe, sóng
đánh mạnh,gió thổi to thì thân cây cứ lúc lắc qua
phải, qua trái, rễ không ăn chặt vào đất bùn.
Mủ cây giá khá độc, nếu rủi dính vào mắt.